Thứ Năm, 3 tháng 3, 2011

1/- CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM




2/SÁCH OSHO - NGÔ TRUNG VIỆT

* GIỮ MỒM MIỆNG


Giữ  mồm ming. Không tự đ cao mình Nhưng m sáng n đạo lời ca ông là dịu ngt.

Theo chân lí của đo. Phản ánh n nó.
Làm   thành ca ông. Sống nó.
bao gi cũng nâng đ ông.

Đng ngoảnh mt đi với điều được cho ông, không với ly điu được cho người khác,
S rằng ông  quy ri n tĩnh ca người khác.

i lời m ơn
với điu đã được trao cho ông, Dù nó nhỏ thế nào.
Thuần khiết, đng bao gi nao núng.

Cuộc sống đầy những điều phức tạp. Ngay cả khi chúng ta được sinh ra cũng có sợi  dây được gắn vào. Điều phức tạp nhất, cội nguồn của mọi phức tạp là vô nhận biết, vô ý thức. Chúng ta bị hội tụ vào thế giới khách quan và chúng ta hoàn toàn không nhận biết chúng ta là ai.
Toàn thể thông điệp của Phật Gautama là quay vào trong. Thông điệp này là đơn giản, nhưng thực hiện lại gian truân. Nó gian truân bởi vì nhiều, nhiều kiếp chúng ta đã sống ở bên ngoài, chúng ta đã sống cuộc sống của người hướng ngoại. Chúng ta hoàn toàn quên mất cách quan hệ với bản thể riêng của mình, cách hiện hữu với bản thân chúng ta. Chúng ta đã quên mất con đường, ngôn ngữ, phương pháp. Không chỉ thế, chúng ta đã hoàn toàn quên lãng rằng có lãnh thổ cho chúng ta. Chúng ta nghĩ dường như chúng ta chỉ có bên ngoài. Bây giờ điều đó là ngu xuẩn. Cái bên ngoài chỉ có thể tồn tại với cái bên trong; không có bên trong, bên ngoài là không thể có được. Nếu chúng ta có thể nhìn ra ngoài, chúng ta cũng có thể nhìn vào trong. Thực  tế, nhìn vào trong là dễ hơn bởi vì chính tại đó chúng ta được bắt rễ.

Nhưng chẳng bao giờ nhìn vào trong, chúng ta cứ xô vào trong mọi hướng, làm đủ mọi thứ, chẳng biết tại sao, chỉ bởi vì người khác đang làm chúng. Chúng ta bắt chước, theo sau. Chúng ta trở thành bản sao. Đó là điều xấu nhất trong cuộc sống: là bản sao. Con người không bao giờ có thể phúc lạc chừng nào người đó không nguyên bản, chừng nào người đó không biết khuôn mặt nguyên thuỷ của mình.

Tôi đã nghe một câu chuyện rất hay. Nó có thể đúng, nó có thể không đúng. Tính thực của nó không mang nghĩa lịch sử, nhưng điều có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều, nó mang tính biểu dụ.
Câu chuyện là: Alexander Đại đế đang trên đường tới  Ấn Độ. Ông ấy gặp một fakir - nhà sư khổ hạnh, đang ngồi bên đường với một vật tròn, nhỏ, như con mắt trong tay.
"Cái gì đó?"  Alexander hỏi.
"Tôi sẽ không nói cho ông đâu," fakir nói, "nhưng tôi sẽ cá với ông rằng nó nặng hơn  tất cả vàng, bạc và châu báu của ông."
Alexander ra lệnh đem một cái cân khổng lồ tới cùng với tất cả kho báu của ông ấy. Một  bên cân ông ấy chồng tất cả kho báu lên; ông fakir để vật hình mắt tròn nhỏ lên đĩa cân kia và, trông lạ chưa kìa! nó nặng hơn. Nó đi xuống và kho báu bao la bị nhấc lên không trung. Alexander sững sờ.
Thế rồi ông fakir nói, "Tôi sẽ chỉ cho ông xem một điều nữa." Ông ấy lấy ít bụi và rải lên con mắt. Nó lập tức trở nên nhẹ, nâng bổng lên trong không trung; còn kho báu đi xuống.
Alexander không thể kìm được ngạc nhiên thêm nữa và hỏi ông fakir, "Thưa ông, ông phải nói cho ta biết. Vật này là cái gì vậy?"
Ông fakir nói, "Nó chẳng là cái gì đặc biệt cả. Nó chỉ là mắt người."
Con người có khả năng nhìn bản thân mình nữa, nhưng năng lực đó bị phủ đầy bụi. Chúng ta có con mắt bên trong nữa - con mắt thứ ba - nhưng con mắt đó không hoạt động, và chúng ta đã không dùng nó lâu tới mức nó đã mất hoàn toàn chức năng; nó đã trở thành phần tê liệt trong con người chúng ta.

Bây giờ ngay cả các nhà sinh lí học cũng đã phát hiện ra một phần nào đó trong não người mà dường như tuyệt đối thừa. Họ phân vân bởi vì tự nhiên không bao giờ tạo ra cái gì thừa. Nó phải có mục đích nào đó, nhưng dường như nó chẳng có mục đích gì. Nó có thể bị bỏ đi và điều đó sẽ không ảnh hưởng tới bạn chút nào.

Nhưng tất cả các nhà huyền môn trong nhiều thời đại đều đã nói cùng một điều - tất nhiên, không theo thuật ngữ khoa học; họ có cách riêng của mình để nói điều đó. Họ gọi nó là con mắt thứ ba. Một phần nào đó của tâm trí bạn có khả năng vận hành theo cách chỉ hướng nội. Thiền tạo ra bầu không khí đúng, bầu khí hậu đúng cho nó vận hành.

Thiền đơn giản nghĩa là loại bỏ đi cát bụi mà ông fakir kia đã ném vào con mắt này. Và cát bụi không là gì ngoài toàn thể quá trình tâm trí các ý nghĩ, ham muốn, tưởng tượng, ghi nhớ. Nếu bạn trở nên có khả năng về vài khoảng hở, lỗ hổng, khi mọi quá trình ý nghĩ dừng lại... bỗng nhiên bạn hiện hữu và không có gì để nhìn ở bên trong. Thế thì chỗ rẽ xảy ra; thế thì lập tức có thay đổi triệt để trong tầm nhìn của bạn, thay đổi động thái của bạn. Thế giới bên ngoài biến mất và thế giới bên trong xuất hiện.

Chính bởi vì điều này mà các nhà huyền môn nói rằng thế giới bên ngoài là ảo tưởng. Không phải là nó không tồn tại; tn tại đấy, nhưng ảo tưởng bởi nhà huyền môn biết một trạng thái nào đó của tâm thức khi đơn giản bay hơi, không được tìm thấy đâu cả. Bạn đi vào trong một chiều hướng hoàn toàn khác: chiều ng của phúc  lạc, chiều hướng của an bình, chiều hướng của Phật, Christ, Krishna.

Những lời kinh này rất đặc biệt. Toàn thể loạt kinh này... đây loạt cuối  cùng các kinh của Phật. Mãi cho tới giờ ông y đã nói cho các đệ tử, người đã sẵn sàng. Bây giờ phần cuối cùng của lời kinh ca ông ấy được ngụ ý dành cho b tát, cho những người đã tr nên sẵn sàng, cho những người đã kinh nghiệm cái đó của bên trong. không dành cho người mới điểm đạo,  không dành cho ngưi tinh thông lão luyện. Do đó phần cuối này phần quan  trọng nhất.

Phật nói có hai loại người chứng ngộ trên thế giới; ông ấy rất khoa học về cách tiếp cận này. Phân loại của ông ấy là rất có ý nghĩa; không ai đã làm điều đó trước đây hay kể từ đó. Ông ấy nói loại người chứng ngộ thứ nhất được gọi là a la hán. A la hán là nhà huyền môn; ông ấy đã biết, ông ấy đã nhận ra, nhưng ông ấy hoàn toàn không quan tâm tới người khác. Ông ấy đã tìm ra con đường. Ông ấy đã đạt tới nhà của mình và ông ấy không quan tâm tới người khác, người đang tìm và kiếm, bởi vì hiểu biết của ông ấy là ở chỗ nếu họ tìm và kiếm một cách đích thực họ sẽ tự mình tìm ra con đường. Và nếu họ không phải là người tìm  kiếm thực, không ai có thể làm cho họ thành người tìm kiếm thực được; do đó chẳng cần tới giúp đỡ. A la hán không giúp thêm nữa. Ông ấy đã du hành một mình và ông ấy biết mọi người đều phải du hành một mình.

Khi bản thân Phật trở nên chứng ngộ, ý tưởng đầu tiên của ông ấy là trở thành a la hán.  Trong bẩy ngày ông ấy vẫn còn tuyệt đối im lặng, không nói lấy một lời.

Câu chuyện là: Các thần trên trời xuống. Họ rất lo nghĩ  bởi vì thỉnh thoảng mới có một người được thức tỉnh, và nếu người đó vẫn còn im lặng tuyệt đối thì thế giới sẽ bỏ lỡ thông điệp của người đó. Và thông điệp của ông ấy là dành cho những người đang chết; thông điệp của ông ấy là đồ nuôi dưỡng cho những người bị đói về chân lí. Thông điệp của ông ấy có thể là con thuyền sang bờ bên kia. Thông điệp của ông ấy phải được chuyển giao, ông ấy phải được thuyết phục. Họ đã tới, và họ biện minh.

Nhưng Phật nói, "Các ông phải đồng ý với ta là không ai đã có thể giúp ta được - tất nhiên, ta đã gõ nhiều cánh cửa - bởi vì nó là cái gì đó không thể truyền trao được. Cho dù họ có nó họ cũng không thể trao nó cho ta được; ta phải tìm nó bằng nỗ lực của riêng ta. Do đó ta nghĩ đó là cách duy nhất: mọi người phải tìm và kiếm; nó không thể được vay mượn."
Ông ấy đúng và các thần phải đồng ý. Và ông ấy nói, "Cho dù ta nói điều đó, chỉ một trong mười nghìn người mới hiểu. Những người còn lại sẽ không hiểu; ngược lại, họ sẽ hiểu lầm. Cho nên tại sao tạo ra nhiều hiểu lầm thế trên thế giới làm gì? Thế giới này đã lẫn lộn rồi - sao tạo ra thêm lẫn lộn nữa? Vì từ bi mà ta mới im lặng. Và người sẽ hiểu bản thân người đó sẽ tìm thấy nó bằng cách nào đó. Người có thể hiểu điều ta nói còn thông minh tới mức thực sự người đó không cần giúp đỡ. Cho nên phỏng có ích gì? Sao ta phải bận tâm?"

Các thần bị làm cho im lặng. Họ đi vào rừng để cân nhắc lại vấn đề. "Làm sao thuyết phục được Phật? Ông ấy dường như đúng, ông ấy logic, nhưng phải tìm ra cách nào đó chứ." Cũng tốt là họ đã có thể tìm ra cách nào đó, bằng không chúng ta đã lỡ Dhammapada; những lời kinh tuyệt vời này chắc đã bị bỏ lỡ. Thế giới chắc đã nghèo hơn nhiều. Toàn thể công trạng được ghi cho các vị thần vô danh này, những người đã thuyết phục Phật!

Họ đắn đo về vấn đề này trong nhiều giờ; họ tìm ra cách. Họ quay lại và họ nói, "Chúng tôi đồng ý với thầy, nhưng chỉ một điều chúng tôi không thể đồng ý được. Và điểm đó là ở chỗ chúng tôi hiểu rằng duy nhất một người sẽ hiểu trong số mười nghìn người, cho nên thầy không cần bận tâm về người đó; người đó tự bản thân mình chẳng chóng thì chầy sẽ tìm thấy. Vấn đề chỉ là thời gian, và thời gian không thành vấn đề bởi vì sự tồn tại là vĩnh hằng. Cho nên có thành vấn đề gì, làm sao lại thành vấn đề, dù người này đạt tới hôm nay và ai đó đạt tới ngày mai hay ngày kia? Tất cả những người đã trở nên thức tỉnh đều đương đại; điều đó chẳng tạo ra gì mấy khác biệt chút nào."

Đó là lí do tại sao tôi nói tôi là người đương đại với Phật, người đương đại với Jesus, người đương đại với Zarathustra, người đương đại với Lão Tử. Một khi bạn biết, bạn trở nên đương đại với tất cả mọi người biết. Mọi lỗ hổng thời gian nhỏ bé đơn giản biến  mất, chúng tí hon thế. Hai mươi nhăm thế kỉ cũng chẳng tạo ra khát biệt chút nào.

Đó là lí do tại sao ở phương Đông chúng ta đã không bận tâm về thời gian. Không ai biết khi nào Krishna được sinh ra. Chúng ta cũng có thể đã tạo ra lịch nhân danh Krishna - trước Krishna, sau Krishna - chúng ta có thể đã tạo ra lịch sử. Và Krishna chắc chắn đi trước Jesus ít nhất ba nghìn năm, cho nên lịch của ông ấy chắc đã năm nghìn năm so với bây giờ. Nhưng chúng ta chưa bao giờ bận tâm về điều đó. Không ai biết khi nào người sáng lập ra Jaina giáo, Adinatha, được sinh ra hay khi nào ông ấy chết. Ông ấy phải trước ngay cả Krishna ít nhất năm nghìn năm. Nếu chúng ta có lịch thì, lịch của ông ấy đến bây giờ ít nhất cũng đã mười nghìn năm tuổi. Tôi đang nói "ít nhất," bởi vì người Jaina nói rằng ông ấy còn cổ hơn. Theo họ ông ấy cổ đại gần chín  mươi nghìn năm; điều đó là có thể.

Nhưng chúng ta đã không tạo ra lịch sử, chúng ta đã không viết lịch sử, với lí do đơn giản là những người đáng viết tới thì đi trước thời đại; với họ thời gian trở thành không liên quan. Và những người không đáng viết tới, chỉ họ mới làm om sòm trong thế giới thời gian. Genghis Khan, Tamerlane, Adolf Hitler, Joseph Stalin, Ayatollah Khomeiniac, những người này làm nhiều ồn ào trong thế giới thời gian. Một Buddha, một Krishna, một Jesus, một Zarathustra đơn giản không để lại dấu vết trong thời gian; họ biến mất không để lại dấu vết gì, cứ dường như họ không phải là một phần của lịch sử, hay họ là một phần của một loại lịch sử hoàn toàn khác mà không có tính thời gian.

Các thần biện minh với Phật. Họ nói, "Chúng tôi đồng ý rằng một người: người đó sẽ tìm thấy nó dù thầy có nói cho người đó hay không, người đó  thông minh thế; nếu người đó có thể hiểu được thầy ngay lập tức, thế thì người đó sẽ tự mình tìm ra nó. Và chúng tôi cũng đồng ý về những người khác, hàng nghìn người sẽ không hiểu thầy chút nào; ngược lại họ sẽ hiểu lầm thầy. Nhưng họ đã hiểu lầm rồi, hiểu lầm nào hơn nữa còn có thể có đó được? Cho nên thầy không cần lo nghĩ về điểm đó. Họ đã trong lẫn lộn rồi, thầy không thể làm họ lẫn lộn thêm nữa được."

Và đây là kinh nghiệm của tôi nữa: dù tôi có cố gắng đến đâu tôi vẫn không thể làm lẫn lộn bạn thêm được! Bạn đã chạm tới đáy tảng đá rồi; không có gì dưới nó, bạn không thể đi sâu hơn vào trong đó được. Bạn hoàn toàn an toàn.

Cho nên các thần nói, "Thầy không thể làm lẫn lộn họ thêm được nữa. Họ đủ tài làm lẫn lộn mình rồi, họ đã làm điều đó tới mức  tối đa. Cho nên về điều đó chúng tôi không đồng ý.

"Và một điều nữa: có thể có một hay hai người trong số cả nghìn người đó, người ở giữa hai loại người này - người có thể hiểu thầy và cả triệu người không thể hiểu được thầy và nhất định hiểu lầm thầy. Giữa hai loại người này thầy nghĩ xem," họ nói với Phật, "không có khả năng của vài người, một hay hai hay ba gì đó sao - vâng, họ sẽ rất ít, họ có thể được đếm trên đầu ngón tay - người có thể ở chính giữa, không bị lẫn lộn tới mức họ không thể được giúp chút nào mà lại cũng không sáng tỏ tới  mức họ có thể tìm ra con đường của mình theo cách của mình? Nói với họ đi, họ sẽ được thầy giúp đỡ đấy."

Và Phật phải đồng ý; đó không phải là biện luận chỉ vì biện luận; ông ấy đã thấy chân lí của điều đó. Ông ấy nói, "Ta phải đồng ý với các ông. Đúng, có vài người đích xác ở giữa, trên đường biên. Nếu ta không nói gì cho họ, họ có thể bị lạc trong đám đông; nếu sự giúp đỡ nào đó được trao cho họ, một bàn tay nhỏ, họ có thể được kéo ra khỏi  vũng bùn của mình. Ta sẽ nói cho họ."
Ông ấy sắp sửa là một a la hán. A la hán nghĩa là người đã đạt tới nhưng không quan tâm tới người khác, gần như lạnh lùng, không chăm sóc chút nào. Ông ấy trở thành bồ tát; đó là phân loại thứ hai.

Bồ tát nghĩa là người không chỉ là nhà huyền môn mà còn là thầy, người đã không chỉ biết tới bản thân mình, mà còn cố làm cho điều đó được người khác biết tới. Tất nhiên, công việc của Bồ tát khó khăn hơn nhiều; a la hán ở vị trí tốt hơn. Bồ tát phải vật lộn với đủ mọi loại không lành mạnh - người điên, người chia chẻ, người tinh thần phân liệt, người thần kinh, người tâm thần. Nhân loại đầy những người này. Bồ tát phải đi vào trong đám đông, vào trong bùn nơi bạn đang ở, bởi vì đó là cách duy nhất để giúp bạn thoát ra. Chừng nào ông ấy còn chưa đi vào trong số các bạn, chừng nào ông ấy còn chưa sống với bạn, chừng nào ông ấy còn chưa có quan hệ với bạn, chưa trao đổi với bạn, theo cả nghìn lẻ một cách dụ dỗ bạn, tạo ra niềm khao khát chân lí trong bạn, ông ấy không thể giúp bạn được. Và những điều này không phải là điều dễ dàng.

Mọi người không quan tâm tới chân lí chút nào. Họ quan tâm tới tiền bạc, họ quan tâm  tới quyền lực, tới danh vọng. Họ không quan  tâm tới việc được giải thoát, họ không muốn lành mạnh. Họ bảo vệ cái không lành mạnh của mình theo đủ mọi cách bởi vì họ đã đầu tư nhiều thế vào cái không lành mạnh của họ. Nó là cái không lành mạnh của họ và họ rất tự hào về nó.
Bạn không tự hào là người Ki tô giáo, là người Hindu, là người Mô ha mét giáo sao?  Bạn không tự hào là người Đức hay người Anh hay người Ấn Độ sao? Bạn tự hào về tất cả những cái không lành mạnh này. Những phân chia này đã mang tính phá huỷ. Những phân chia này đã chứng tỏ là tai ương cho nhân loại. Chúng đã là thảm hoạ, nhưng bạn rất tự hào. Mọi người đều dường như tự hào.

Tôi đã nghe:

Một người Anh nói với một người Italia. Và người Anh hỏi người Italia, "Nếu ông được cho chọn lựa quốc tịch trước khi sinh, ông sẽ chọn quốc tịch nào?"

Người kia nói, "Tất nhiên tôi sẽ là người Anh!" Và người Anh hỏi, "Ông cảm thấy thế nào?" Người kia nói, "Tôi sẽ cảm thấy rất tự hào!"

Những ngày đó là của chiến tranh thế giới thứ hai và người Italia và người Đức bị thất bại. Họ bị mất danh giá và quyền lực, họ bị kết án trên khắp thế giới.

Người Italia hỏi người Anh, "Nếu ông mà không được sinh ra là người Anh, ông sẽ cảm  thấy thế nào?" Và người Anh nói, "Tôi sẽ cảm thấy xấu hổ."

Đó là lí do tại sao người Anh dường như là người thần kinh nhất trong mọi người - rất  bị ám ảnh bởi là người Anh, cứ dường như nó là cái gì đó rất lớn lao.
Cùng điều đó là trường hợp với người Ấn Độ; họ cũng chịu cùng bệnh kinh niên này. Họ cảm thấy rất tự hào là người Ấn Độ. Họ không nghĩ rằng bất kì ai khác trên thế giới  là người thực; tất cả đều ở dưới hơn chút ít. Nhưng đó là cách mọi người nghĩ sâu bên dưới.

Khi lần đầu tiên người châu Âu tới Trung Quốc, họ đã viết trong nhật kí của họ rằng họ không thể tin được người Trung Quốc là người. Đương đầu với giống nòi khác lần đầu tiên phải rất khó chấp nhận những người đó là người. Thế còn với người Trung Quốc thì sao? Sử sách của họ nói rằng nhìn người phương Tây họ rất phân vân - họ chưa bao giờ nghĩ rằng khỉ có thể nói như con người!

Mọi người đều cố gắng bảo vệ cái không lành mạnh của mình; do đó đấy là công việc  khó khăn.

"Tâm thần học có nhiều thứ vô giá trị," một người nói với người khác.
"Ồ?" bạn đồng hành của anh ta nói. "Sao anh nói điều đó?"
"Thế này, hôm nay nhà tâm thần bảo tôi rằng tôi đang yêu cái ô của tôi. Anh đã bao  giờ nghe điều gì ngu xuẩn thế không?"
"Điều đó có vẻ dớ dẩn thật."
"Tôi ngụ ý, tôi và cái ô của tôi có quí mến chân thành với nhau. Nhưng yêu sao? Điều đó thật nực cười!"
Quí mến thì được: "... Quí mến nào đó giữa tôi và chiếc ô của tôi, điều đó là được, nhưng yêu sao? Điều đó thật nực cười!"

Quan sát bản thân bạn, sự vận hành của tâm trí bạn, cách bạn cứ bảo vệ bản thân mình. Và bạn là gì? Chẳng là gì ngoài một chùm những không lành mạnh!

Những lời kinh này dành cho Bồ tát, cho những người đang làm việc với đám đông, với người không lành mạnh. Đây là gợi ý cho họ. Cố hiểu từng lời kinh một sâu nhất có thể được.
(Trích trong: "Con đường của Phật" - tập 11)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét